Tình yêu của người trẻ Việt Nam vào giữa thế kỷ 20 (qua tác giả khúc ca tiền chiến
Trăng Mờ Bên Suối)
Lê Mộng Nguyên
Trong thập niên 1940, tôi thích đọc Sách Hồng và kế đó
báo Phong Hóa rồi Ngày Nay cùng nhiều tiểu thuyết của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, và
nhân dịp được biết - qua ‘’Anh Phải Sống’’ của Khái Hưng và Nhất Linh (1936) và
‘’Hai BuổI Chiều Vàng’’ của Nhất Linh (1937) - bài thơ tuyệt tác Tình Tuyệt
Vọng do Khái Hưng dịch (theo thể lục bát) từ bản Sonnet của Félix Arvers :
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây
phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng
nỗi thảm sầu
Mà nguời gieo
thảm như hầu không hay
Hỡi ơi người đó
ta đây
Sao ta thui
thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi trọn
đường trần
Truyện riêng dễ
giám một lần hé môi
Người dù ngọc
nói hoa cười
Nhìn ta như thể
nhìn người không quen
Đường đời lặng
lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân
đạp lên trên khối tình
Một niềm tiết
liệt đoan trinh
Xem thơ nào
biết có mình ở trong
Lạnh lùng, lòng
sẽ hỏi lòng
Người đâu tả ở
mấy giòng thơ đây
Hồi bấy giờ, thanh thiếu niên Việt Nam,
nhất là các học sinh trường cao đẳng tiểu học hoặc trung học ở Huế, không ai là
không học thuộc lòng bài thơ dịch này vì nó rất hợp với tình yêu lãng mạn của
những người trai trẻ trong những năm 1940-1945 là những năm mà Đông Dương bị
Nhật chiếm đóng nhưng chủ quyền vẫn thuộc nước Pháp của Thống chế Pétain (tương
đối bình an, xa lánh mùi bom đạn của thế chiến thứ 2) và Hoàng đế Bảo Đại vẫn
còn trị vì nước An Nam. Tôi không ý giám
rằng chuyện tình giữa Marie Nodier và Félix Arvers (nằm trong nửa phần thế kỷ
19) là phản ảnh tâm hồn của trai gái VN trong những năm 1940-1950, nhưng hoàn
cảnh thời bấy giờ là một lý do đưa đẩy
một số thanh thiếu niên vào những mối tình vô vọng như đã nói trong Sonnet
d’Arvers. Ngoài phẩm chất vĩnh cửu của một mối tình bi đát, âm thầm đã vượt
qua không gian cùng thời gian để đến với chúng ta hôm nay, bài ‘’Tình Tuyệt
Vọng’’ nói lên một cách đau khổ và xót xa mối tình mà nhà thơ đã từng ôm ấp,
chôn cất trong lòng cho đến ngày tận thế. Người đẹp mà thi sĩ đã yêu thầm trộm
nhớ là Marie Nodier mà chàng được gặp
nhiều lần trong những buổi họp bình thơ văn (Séances de critique littéraire) do
thân phụ nàng là nhà văn Hàn Lâm Viện Học sĩ Pháp Charles Nodier (1780-1844) tổ
chức tại thư viện Arsenal (hồi ấy ông làm giám quản thư viện (conservateur de
bibliothèque) và đã quy tụ nhiều thi văn
nghệ sĩ lừng danh như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Alfred de Musset, Lamartine
và Félix Arvers là một thi sĩ đã nổi tiếng ngay thời còn học sinh bậc trung
học, được Giải Thưởng Danh Dự Latin, Giải Nhất Pháp Văn trong những cuộc thi
cạnh tranh hồi bấy giờ. Ông tốt nghiệp trường Đại Học Luật Khoa và đã từng làm
luật sư một thời gian ngắn rồi xin thôi để có thì giờ sáng tác cho thi ca văn
nghệ. Có lẽ tài năng của Félix Arvers đã được Charles Nodier chú ý nên gọi mời
nhà thơ đang lên vào làm thư ký cho ông và gia sư (précepteur) cho ái nữ Marie.
Bài Sonnet d’Arvers diễn tả mối tình tuyệt vọng của Félix Arvers (không
bao giờ bày tỏ luyến ái) với Marie Nodier
phải đi lấy chồng năm 1833 và trở thành bà Marie Mennessier-Nodier .
Tình yêu lãng mạn có thể đi đến tận cùng,
cực hạn, nghĩa là đến phản bội (hay phụ phàng, phụ ước), nhưng lúc nào cũng với
một tâm hồn vô tội, tinh khiết của người trẻ VN vào giữa thế kỷ 20. Tôi muốn
diễn tả cái tình yêu này qua bài Mỵ Châu Trọng Thủy mà câu chuyện thê
thảm lấy từ cổ sử Việt Nam (nhiều đoạn có tính cách hoang đường)... Màn ca kịch
ngắn được viết vào khoảng năm 1947,
nghĩa là 2 năm trước bài ‘’Trăng Mờ Bên Suối’’, lúc tôi vừa ra khỏi tuổi ấu thơ
thường say mê đọc đi đọc lại lịch sử nước nhà... Tôi biết ơn học giả Trần Trọng
Kim, tác giả Việt Nam Sử Lược với lối hành văn lưu loát đã làm tôi nhiều
lần say đắm, hoàn toàn quên hiện tại trong cuộc hành trình về dĩ vãng... Tôi
quyết chọn giữ mối tình bất diệt giữa
Trọng Thủy và Mỵ Châu dưới đời nhà Thục để làm hứng cảm cho bài hát. Hơn nữa,
thời ấy có thể xem như là nguồn gốc nước ta mà cũng là khởi thủy cuộc diễn tiến
của dân tộc Việt Nam. Viết theo cung ré mineur, nhịp Tư 4/4 hay C, hành
nhạc Lento expressivo, Đoạn Đầu diễn tả oan hồn MỴ CHÂU hiện lên rất mờ ảo sau
khi bị cha già chém :
Chiều dần buông trong khói sương chiều vương
Ngày tàn mơ nhắc chi thêm buồn lòng ta
Nhìn xem trăng lên vờn ánh sương ngà
Chàng nơi đâu, bóng chàng đâu ? em mong chờ !
Hận một đời thôi từ nay giấc mơ xưa còn tìm đâu, bóng em phai mờ
Trong Đoạn
Hai : Mặc xiêm giáp cỡi trên mình ngựa, Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng của vợ
rắc. Đến núi Mộ Dạ thì được tin nàng chết, chàng buồn rầu, xuống ngựa, than
khóc tìm lại người xưa :
Chiều nay đi theo vết nàng đâu đây
Dừng cương ta trông chim chiều xa bay
Bóng nàng đâu ? Bóng nàng đâu ? Ta mong em bao ngày, nào em đâu ?
Hàng thùy dương vương sầu đau ôm hờn, đôi ta biệt ly sầu
Mỵ Châu ơi ! Bóng nàng đâu ? Bóng nàng đâu ? Ta mơ rồi !
Từ nay dưới suối vàng, tình duyên thôi lìa tan !
Tình ngàn năm thôi từ nay vết dấu xưa còn tìm đâu, bóng ai phai mờ
Để thấm hiểu tình yêu của người trẻ Việt
Nam vào giữa thế kỷ 20, trong những năm 1940-1950 mà văn hóa, văn chương và văn
nghệ nước ta bị nhiều ảnh hưởng Âu Tây
vì trong sự đụng chạm của hai nền văn hóa và văn minh Á Âu trên bán đảo
Đông Dương, các nhà văn lãng mạn Pháp nói riêng và Tây phương nói chung, với sự
tán dương đời sống cảm tình, khuyến khích mạnh mẽ những thế hệ văn nghệ sĩ lúc
bấy giờ trong cuộc chiến đấu đả phá
những phong tục lỗi thời của Khổng giáo đã làm liệt bại (trong quá khứ) biết
bao tài năng đầy hứa hẹn. Nhà phê bình Trương Tửu, trong Tao Đàn, số 1, tháng 3-1939, tr. 25, đã
không do dự đưa ra những lời nhận xét xác đáng như sau :
Chủ nghĩa cá nhân và văn chương lãng mạn của Tây phương ồ đến xứ ta như
cuồng phong, lôi cuốn các tâm hồn. Trên miếng đất tình cảm đã cầy sẵn của chủng
tộc Việt Nam, hai hóa vật tinh thần ấy đủ điều kiện để bắt rễ và nẩy nở. Các
loại thanh niên sinh trưởng trong cảnh đồi bại của Nho giáo, đều xa lánh óc duy
lý để đi thẳng tới mỹ thuật và ái tình. Họ quên lý trí. Họ chỉ còn biết có
thiên nhiên và trái tim. Những nhà văn lãng mạn như Song An (bút hiệu của Hoàng Ngọc Phách, tác giả Tố Tâm
1925), Khái Hưng (Hồn Bướm Mơ Tiên), Nhất Linh (Đoạn Tuyệt,
1935), Lưu Trọng Lư (Tiếng Thu : ‘’Con nai vàng ngơ ngác / Đạp trên
lá vàng khô’’, hoặc : ‘’Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi... ‘’,1939),
Lan Khai, Thế Lữ (Mấy Vần Thơ, 1935 và MVT tập mới 1941 : ‘’Anh đi
đường anh, tôi đường tôi / Tình nghĩa đôi ta có thế thôi / Đã quyết không mong
sum họp mãi / Bận lòng chi nữa lúc chia phôi’’) là tâm thức của xu hướng ấy.
Tôi xin thêm Xuân Diệu, tác giả THƠ THƠ (1933-1938) : ‘’Làm sao cắt
nghĩa được tình yêu ! Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều / Nó chiếm hồn ta
bằng nắng nhạt / Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu... [Vì Sao] , đã làm điêu đứng
biết bao quả tim của người trẻ VN lúc bấy giờ vì :... ‘’Yêu, là chết ở
trong lòng một ít, Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu ? Cho rất nhiều, song
nhận chẳng bao nhiêu ; Người ta
phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết’’ [YÊU]...
Tình yêu của người trẻ VN vào khoảng giữa
thế kỷ 20 (qua tác giả Trăng Mờ Bên Suối) là một tình yêu lãng mạn, đau khổ tận
cùng (tôi đã nói trên) tương tự ‘’Nỗi Thống Khổ của người trai trẻ Werther’’,
1774 (Les souffrances du jeune Werther) trong tiểu thuyết của nhà văn hào Đức
GOETHE). Sách này được lừng danh khắp Âu châu, đã làm hứng cảm cho nhiều nhà
văn khác và cũng là nguyên do của nhiều vụ tự sát ‘’theo kiểu Werther’’
(suicides à la Werther). Tôi nhớ đến tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách mà nhân dịp nhà học giả Đào Đăng Vỹ đã viết :
‘’Về phần
Tố Tâm, nếu nàng cam chịu và ưng thuận sự hôn phối (ép buộc) để chết trong lòng
vì buồn đau, những người trai gái khác thời bấy giờ ưa tự sát hơn đặng thoát
khỏi cái số phận mà gia đình định trước. Nếu ta mở những trang báo trong những năm 1925-1930, ta thấy đăng
nhiều tin về thiếu nữ tự vẫn bằng cách nhảy xuống nước lãng mạn của hồ Trúc
Bạch và hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội’’
(Evolution de la littérature et de la pensée vietnamienne depuis l’arrivée des
Français jusqu’à nos jours, Hué, Tao Đàn, 1949, pp. 17-18). Alfred de Musset
(1810-1857) trong một tiếng kêu, muốn nói lên cái đẹp của khổ đau : ‘’Les
plus désespérés sont les chants les plus beaux. Et j’en sais d’immortels qui
sont de purs sanglots’’ : Những lời tuyệt vọng nhất phải chăng là những
lời ca tuyệt tác ? Tôi biết có nhiều vần thơ bất hủ mà chỉ là tiếng khóc
nức nở của linh hồn. Cũng như Đông Hồ (tự Trác Chi), tên thật Lâm Tấn Phát
với bài lệ ký ‘’Linh Phương’’ khóc vợ (1928) :
Chăn gối cùng nhau những ấm êm
Bỗng làm ngọc nát, bỗng châu chìm
Đầm đìa giọt thảm khăn hồng thấm
Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm
Hình dạng mơ màng khi thức ngủ
Tiếng hơi quanh quẩn nếp y xiêm
Bảy năm vui khổ, nghìn năm biệt
Sớm gió, chiều mưa lắm nỗi niềm
(Nam Phong số
128, th. 4-1928)
hay bà Tương
Phố khóc chồng với ‘’Giọt Lệ Thu’’ viết trong mùa thu năm 1923 (đăng báo Nam
Phong số 131, th. 07-1928), bằng thơ :
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
hoặc bằng văn
xuôi : ‘’Anh ơi ! em nghĩ đến : về với anh mùa thu, tiễn đưa anh mùa thu,
mất anh lại cũng mùa thu, cho nên năm năm cứ đến độ thu sang, thì em lại bồi
hồi nhớ trước, tưởng xưa, mà lòng thu một tấm cũng ngây ngất sầu ! ... Cái
mùa thu tiễn biệt và vĩnh biệt cũng đã là nàng thơ cho bao nhiêu nhạc sĩ nặng
tình cảm hiện giờ, riêng tôi đã viết năm 2001
(để đặc biệt tiếp nối cuộc tình lãng mạn của TMBS trong những năm
1940-1950) bài Chiều Vàng Năm Xưa mà Tuyết Dung đã trình bày với giọng
ca tuyệt vời trên mạng lưới cùng trong buổi ‘’Gặp Gỡ Ngô Thụy Miên’’ ngày 25
th.5-2002 tại Mộc Lan Trang (Antony) và trong chiều ‘’Bên Trời Tưởng Nhớ’’ ngày
15 th.6-2002 tại nhà hàng Chiều Tím
(Paris), do CLBVN hải ngoại tổ chức, có Đoạn Cuối như sau : Chiều
vàng năm nay khi mùa thu hiu hắt nhớ nhung bao hình bóng. Tìm người yêu đi
trong bóng sương, hồn nước khóc âm thầm chờ mong. Lá vàng rơi chứa chan ngoài
song.
Cái đau khổ bởi tình yêu của người trẻ VN
nhiều lúc tương tự cái buồn cô quạnh của LAMARTINE qua bài ‘’L’Isolement’’
(trích thi tập ‘’Méditations Poétiques’’, 1820) mà trong đó nhà thi hào Pháp
phát biểu sự dửng dưng của ông đối với vũ trụ và ngay cả với cuộc đời (sau cái
chết của người tình muôn thuở ELVIRE ngày 18 tháng 12 năm 1817). Thi nhân muốn
bày tỏ nguyện vọng nhiệt thành rời bỏ trái đất, một kỳ vọng viễn vông trong
hạnh phúc lý tưởng mà ông sẽ đạt được hoặc tìm lại trong không trung
(espaces) : ‘’Que me font ces vallons, ces palais, ces chaumières, Vains
objets dont pour moi le charme est envolé ? Fleuves, rochers, forêts,
solitudes si chères, Un seul être vous manque, et tout est dépeuplé !’’ :
Trước thung lũng, đền đài và nhà lá
Ngoại vật trống không, mê ảo rụng rời
Cả những sông, núi đá, khu rừng thẳm
Từng ẩn núp mộng tưởng với cô liêu
Nay thiếu bóng một người yêu muôn thuở
Tâm hồn ta như hoang vắng, quạnh hiu
Nhà văn tiền phong cho phong trào lãng mạn
Pháp ở VN không ai chối cãi được là Khái Hưng, tác giả Hồn Bướm Mơ Tiên
(nhà xb ĐờI Nay, Hanoi 1933). KH mở đầu một thời kỳ của tiểu thuyết lãng mạn VN
với nhiều phản hưởng tới các nhà văn, thơ, nhạc và thanh thiếu niên VN sau này.
HBMT diễn tả cuộc xung đột thường xuyên giữa tình yêu và tôn giáo mà hai đứa
trẻ yêu nhau được sống một cách sâu đậm.
Nhưng kết cục họ phải hy sinh mối
tình này để nhường chỗ cho một hạnh phúc cao cả hơn và đồng điệu về mặt
tâm linh. Tình yêu giữa Lan và Ngọc vì thế trở thành phi thường : hai người đều
từ bỏ chuyện hôn phối để được gần nhau tha thiết hơn, để sống vĩnh cửu với nhau
trong tâm hồn và lý tưởng. Lẽ dĩ nhiên là Khái Hưng đã viết một tiểu thuyết rất
lãng mạn cho thanh thiếu niên VN thời
bấy giờ là thế hệ trẻ đã đọc nhiều, đã thông cảm nhiều với CHATEAUBRIAND và
LAMARTINE. Lan từ bỏ ái tình vì đã làm một thề nguyện với mẹ nàng lúc hấp hối... lời thề nguyện đã
thốt ra trong những trạng huống nhắc nhở ta lời thề nguyện của Atala (của
Chateaubriand, 1801). Ngoài ra, sự hy sinh của Lan có thể nói là khá gần sự hy
sinh của Jocelyn (của Lamartine, 1836) mà việc cung hiến giáo chức
(consécration sacerdotale) đã làm tránh khỏi cuộc tình ái của con người.
Để trở lại tác giả TMBS là người trai trẻ
đã say mê những bản nhạc tiền chiến (nghĩa là trước chiến tranh Quốc gia - Cộng
sản bùng nổ sau Hiệp Định Genève ký ngày 20-7-1954) vì toàn dựa trên hứng cảm
tình yêu lãng mạn rất tiêu biểu tâm hồn thanh thiếu niên VN hồi bấy giờ, như
‘’Giọt Mưa Thu’’ và ‘’Con Thuyền Không Bến’’ của Đặng Thế Phong, ‘’Đêm Đông’’
của Nguyễn Văn Thương, ‘’Biệt Ly ‘’ của Dzoãn Mẫn, ‘’Bến Cũ’’ của Anh Việt’’,
‘’Thiên Thai’’ của Văn Cao, ‘’Ngày Về’’ của Hoàng Giác... vân vân. Dạo ấy, tôi
mới 14-15 tuổi lúc Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và trao ấn kiếm ngày 25 tháng 8
năm 1945 cho 2 đại diện Việt Minh, trong một buổi lễ tại Điện Kiến Trung. Tôi
bùi ngùi, nước mắt rưng rưng khi nghĩ đến một thời đại đã qua. Lúc tôi còn thơ
ấu (6, 7 tuổi, tôi không còn nhớ rõ), đã đôi lúc rung cảm trước sắc đẹp quí
phái của Nam Phương Hoàng Hậu và đã yêu thầm trộm nhớ nàng như gợi ý trong bài
Sonnet d’Arvers. Giữa 3 thứ vở học trò mang ảnh bìa vua BĐ, Hoàng tử Bảo Long
và Nam Phương Hoàng Hậu, tôi lúc nào cũng kiếm mua cho được vở Nam Phương. Sau
khi được bầu ngày 5-12-1997 làm Viện sĩ Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại Pháp để
thay thế cựu hoàng Bảo Đại mất ngày 31-07-1997, cái thông điệp thứ hai của tôi
tại HLV ngày 19 th. 11 năm 1999, lấy tên ‘’Bảo Đại, dernier empereur et chef
d’Etat du Vietnam’’ (BĐ, vị Hoàng đế cuối cùng và Quốc trưởng nước Việt Nam).
Sau 45 phút thuyết trình, tôi kết luận như sau :
‘’... Hoàng
Đế BĐ đã mất vì một bệnh ung thư óc não (tumeur au cerveau) tại nhà thương
Val-de-Grâce ở Paris, ngày 31 tháng 7 năm 1997 trong sự dửng dưng của mọi
người. Phu nhân Hoàng Hậu Nam Phương mà chúng ta ca tụng cách cư xử rất xứng
đáng vào những đầu năm chiến tranh
Pháp-Việt Minh 1945-1946 trong lúc phu quân BĐ vắng mặt nước nhà, cũng đã tạ
thế trong cô quạnh ngày 14 tháng 9 năm 1963 và được mai táng tại Chabrignac
(Corrèze) trong một nghĩa địa nằm trên đồi, đối diện với một Nhà Thờ. Cựu Hoàng
và Hoàng Hậu đã làm gì để phải lìa đời một cách thê thảm như thế ? Đối với vua
Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu, tôi có động lòng thương, và bây giờ không phải
là một luật gia hoặc chính trị học mà là một nhà thơ hân hạnh viết tặng ông và
bà (Hoàng Hậu tuyệt mỹ trong thời thơ ấu của tôi) những vần xúc cảm (bằng tiếng
Pháp) :
Tu es un Ange venant du Paradis
Qui n’a fait qu’une brève apparition ici
Dans notre jardin de musique et de poésie
Et de reprendre ta route à tire-d’aile, à l’infini
Laissant ta famille et tes amis dans l’affliction
Ô Roi, ô Reine, pourquoi es-tu parti(e) avant l’heure
Dans l’autre monde, à mi-chemin de ton bonheur ?
Pour te dire adieu, je n’ai pu écrire de longs vers
Pour te pleurer, je n’ai rédigé que des phrases égarées
Je ne t’ai connu(e) qu’au travers de
ta vie attristée
Et pourtant toute mon affectueuse amitié
T’est dédiée à présent et pour une éternité.
Người như một áng thiên thần
Qua vườn thơ nhạc một lần mà thôi
Rồi bay, bay
mãi, bay hoài
Cho gia đình,
bạn thơ ngoài tiếc thương
Người ơi, sao
sớm lên đường
Qua bên thế
giới lỡ làng trần ai
Viếng thăm
không được thơ dài
Khóc thương chỉ
có lạc loài vài câu
Biết ơn qua mấy thơ sầu
Yêu nhau một
thuở như hầu thiên thu
Yêu Hoàng Hậu
lúc 7, 8 tuổi, yêu nền Quân chủ đã tổ chức ngày lễ Vạn Thọ trong Thành nội mà
nhân dịp tôi được gặp người yêu trở
thành thi thần của TMBS, lúc núp mưa bên
cạnh súng ‘’đại bác’’, lẫn lộn nam nữ
học sinh Khải Định-Đồng Khánh; yêu kinh thành Huế, yêu làng Phú Xuân (Hoàng
Hoa Thôn : ‘’Mờ mịt khói chìều nay tìm bóng làng / Tôi trở về đây tấm lòng
nát tan / Nhớ ngày qua thắm hồng, bướm vàng bay khắp đồng mà ngày nay điêu tàn
vì đâu ?’’) mà trong năm 1999 đã bị bão lụt tàn phá :
Em có về làng
Phú Xuân xơ xác
Cạnh Huế thành
sau bão lụt vừa qua
Em về thăm cánh
đồng thu man mác
Lá chưa vàng,
cây cối vẫn như xưa ?..
Sông Bình Lục ngày qua anh ngóng đợi
Cứ mỗi chiều trong nắng đẹp chứa chan
Trong ánh mắt tình yêu em vời vợi
Buồn cho đời anh một kiếp lang thang
Anh ra đi trong
một chiều ảm đạm
Tháng mười năm
ngàn chín trăm năm mươi
Trong sương
khói biên thùy, trong quên lãng
Bỏ gia đình và
đất nước thương đau
Em có về làng anh qua Chợ Cống
Cứ hằng năm bão lụt nước đầy đường
Cầu đã gãy và tình xưa đã vỡ
Hai đứa mình cách biệt chốn tha phương
Đó là bài thơ
‘’Em có về làng xưa ?’’ mà từ Paris
(trong tháng 12-2000) tôi gửi tặng nữ sĩ Hoàng Hoa, sau khi biết nàng vừa mới
về thăm nhà ở Huế. Nàng trả lời ngay (ngày 14-01-2001) từ Los Angeles, qua một thi bản đượm tình nhung
nhớ ‘’Em Có Về’’ :
Em có về thăm
sau cơn bão lụt
Trước năm hai
ngàn buồn lắm anh ơi
Quê hương mình
nay xơ xác tả tơi
Cánh đồng đẹp
ngày xưa không còn nữa
Túp lều tranh thay lá vàng rực rỡ
Gió thu về rên siết giữa hư không
Giòng sông xưa Bình Lục vẫn chờ trông
Đã tan vỡ bóng hình ai thuở trước
Ngày anh đi em
chưa từng mộng ước
Còn nhảy dây
chơi đánh thẻ bỏ khăn
Có biết đâu anh
tâm trạng giá băng
Rời hương lửa
đi vào miền tuyết lạnh
Ngày em về cũng bầu trời xanh ấy
Mà vườn anh cây bồ kết không còn
Vào từ đường thắp nén hương niệm tưởng
Cho hương lòng lan tỏa khắp muôn phương
Bài Trăng Mờ Bên Suối được viết cách đây hơn 50 năm vào một ngày
không mưa tại Huế để đánh dấu một mối tình bất diệt của hai đứa trẻ yêu nhau
trong thời khói lửa... nhưng với linh
tính sẽ xa nhau sau một đêm gặp gỡ cuối cùng bên bờ suối, dưới ánh trăng mờ...
Tình yêu lãng mạn được bối cảnh lúc bấy giờ với chiến tranh bùng nổ giữa quận
đội Quốc gia (dưới thời Cựu Hoàng Bảo Đại, Quốc trưởng kiêm Thủ tướng Chính phủ
thành lập ngày mồng 1 tháng 7 năm 1949, với Tướng Nguyễn Văn Xuân, Phó Thủ
tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng), dư luận xôn xao bàn tán về cuộc tổng động
viên sắp ban hành... Với cây đàn lục huyền cầm Y Pha Nho chiều hôm 13 tháng 11
năm 1949, tâm hồn xao xuyến và dưới một sự xúc cảm dạt dào, tôi đã viết vào
khoảng 30 phút cả nhạc lẫn lời, trong một cuốn vở học trò và trên những trang
giấy có phân ly (papier millimétré) đầy ký chú những bài học Lý Hóa ở trường
Khải Định, một tác phẩm mà sau này trở thành bất hủ (cũng như cuộc tình dang dở
đã in dấu trong lời thơ và ý nhạc). Ai là nhạc thần trong sự sáng tác bài nhạc
này đã làm cho ngay tác giả lúc nghe lại chiều hôm ấy cũng phải rụng rời con
tim ? Nhiều người đã hỏi tôi và cách đây hai năm, trong cuộc phỏng vấn Lê Mộng
Nguyên trên Đài TNVN ở Montréal chiều hôm 02-04-2000, nữ danh ca Huyền Châu
muốn biết (tôi xin trích) trong trường hợp nào và những tình cảm, những kỷ
niệm nào đã cho tác giả nguồn cảm hứng để sáng tác nhạc phẩm muôn thuở TMBS mà
nàng đã được hân hạnh và vinh dự trình bày đêm ca nhạc 01-04-2000 để vinh danh
nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên ?
Linh tính là một sự đau khổ trong tương
lai vì phải rời quê cha đất tổ qua năm sau (nghĩa là cuối năm 1950) cùng với óc
tưởng tượng dồi dào của một học sinh 19 tuổI đã làm cho tôi biến hóa những cuộc
gặp nhau bên bờ sông Hương (sau Bia Đá) và trên đường Nam Giao (nơi trú ngụ của
cô gái Huế người hoàng tộc mới tuổi dậy thì), những buổi chiều vàng mặt trời
sắp xuống, thành một gặp gỡ cuối cùng bên bờ suối dưới ánh trăng mờ, mà ngay
hoa lá cũng động lòng nức nở khóc nỗi chia ly : ... Ngày xưa còn đó trăng
nước mong chờ...
Tôi vừa viết
xong thì anh Lê Mộng Hoàng lúc ấy mới đi chơi về, hát thử ngay với giọng ténor
léger của anh rất xúc cảm, tôi quyết định gửi cho danh ca Thu Hồ trình bày ba
bốn hôm sau trên Đài Phát Thanh Pháp Á (Radio France-Asie) và ngay từ dạo ấy,
TMBS đã sẩy tay tác giả để tự làm một cuộc đời danh vọng, vượt cả không gian và
thời gian, trải qua bao thế hệ... Nhạc sĩ Trịnh Hưng (tác giả Tôi Yêu, Lối Về
Xóm Nhỏ, Lúa Mùa Duyên Thắm) kể lại cho tôi biết lúc anh còn là Bộ đội Việt
Minh làm văn công, anh đã nghe nhiều người hát TMBS vì đó là một bài hát lãng
mạn rất hợp với tâm trạng người lính mặc dầu chính phủ cộng sản cấm hát nhạc ủy
mị một cách gắt gao trong quân đội (thư 14-03-1998)... Lẽ dĩ nhiên là TMBS từ dạo
ấy đã dính vào da tôi hơn cả một danh thiếp, người ta ai cũng chỉ biết tôi qua
tác giả TMBS ! Có người so sánh tôi vớI ALAIN-FOURNIER, tác giả LE GRAND
MEAULNES, chỉ có một tiểu thuyết mà cũng đủ nổi tiếng khắp năm Châu ! Nói như
vậy là không đúng vì tôi làm nhạc từ năm 15 tuổi, bài Xuân Tươi dưới bút
hiệu Lan Đào chẳng hạn được đăng sau đó
trên báo ‘’Quốc Gia’’ Đặc san Tết Mậu Tý; cũng trong năm 1945, bài nghiên cứu
lịch sử Phan Đình Phùng của tôi (ký tên thật LMN) được đăng trên ‘’Việt
Nam Tân Báo’’ dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim (hiện giờ còn bảo tồn tại thư
viện của Ecole française d’Extrême-Orient tại Paris). Năm 18 tuổi tôi được cấp thẻ nhà
báo (carte de presse) sau khi đã viết thơ và nhạc cho Phật Giáo Văn Tập và
làm trưởng ban hợp ca thanh, thiếu niên Phật tử ở Huế. Chính tôi với tư cách
tác giả bài Mừng Khánh Đản đã điều khiển (theo lời yêu cầu của Hòa
thượng Minh Châu) ban hợp ca này trong dịp khánh thành chùa Từ Đàm rất lớn ở
Huế vào năm 1948 :
Ngày rằm tháng
tư nay về đây
Ngày trần gian
chào đón Đức Phật Từ Tôn chúng ta
Ngàn ánh sáng
tưng bừng lan trong nắng mai huy hoàng...
Năm 1948 cũng
là năm tôi sáng tác Vó Ngựa Giang Hồ được nhà xuất bản Hương Mộc Lan
(chuyên in nhạc của các bậc đàn anh : Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Lê Thương, Nguyễn
Văn Thương, Hoàng Giác... ) nhận xuất bản và trả tiền nhuận bút cho tác giả.
Ngày 29 tháng 11 năm 1949 (hai tuần sau TMBS), tôi viết Một Chiều Thương Nhớ
như là tiếp theo của một mối tình dứt đoạn :
Rồi đây sương
gió duyên kiếp lỡ làng
Trời xa xăm lắm
em biết đâu tìm
Lòng anh khắc
khoải chờ mong
Mờ mịt trời Âu
đôi lứa khóc âm thầm
Những bài tôi
làm trong năm 1950 rất nhiều (trước khi từ giã cố hương vào đầu tháng 10), rất
phong phú, trong đó có : ‘’Nhớ Huế’’ :
Ai đi xa Huế
làm sao quên được sông Hương
Con sông năm
trước còn ghi bao tình nhớ thương
Theo giòng
nước, lững lờ trôi,
Thuyền ai
nghiêng mái chèo bên chùa Thiên Mụ
Ngược bến Bao
Vinh theo tình nước mây ?
‘’Bài Thơ Huế’’
:
Bài thơ Huế dệt
bằng gấm vàng,
Dệt bằng mắt
nàng nhìn đắm trời thương
Dệt bằng con
thuyền lững lờ sông Hương
Có ai qua khúc
Trường Tiền
Nhìn nước biếc,
vài cô gái Huế nghiêng duyên cười trong nón lả lơi lả lướt
Về nơi mô ?
Chiều Nam Giao nhớ người Bến Ngự, nhớ lời ước thề...
‘’Ly Hương’’ :
Chiều nay ly
hương
Rời xa nước non
ngàn năm luyến lưu, một đời gió sương
Một chiều ly
hương úa phai ngày ấy
Con tàu lướt
sóng về đến trời Âu
Tất cả đều muốn
diễn tả cái đau đớn tận cùng của hai đứa trẻ đang gặp nhau nhưng biết trước sẽ
ngàn năm vĩnh biệt nhau :
TrờI Âu thăm
thẳm, một trời Âu
Ba-Lê vạn ngả
lắm phương sầu
Năm năm tháng
tháng ngày vô tận
Vẫn nhớ nhung
hoài thuở có nhau (Trích thơ
‘’Trời Âu’’ của LMN)
Hoặc nhiều lúc,
trên đất khách, tôi muốn hét gào nỗi cô quạnh đớn đau :
Em của anh giờ
nay ở đâu ?
Tìm em anh dạo
suốt canh thâu
Đường chia hai
ngả anh đâu biết
Là sẽ ngàn năm
vĩnh biệt nhau (Trích
thơ ‘’Tìm Em’’ của LMN)
Trở lại năm 1945 xa xưa, nhân cuộc hành
trình về lại nguồn gốc hứng cảm TMBS nghĩa là trong một quá khứ của tình yêu
lãng mạn và nhung nhớ thương đau, tâm tưởng lại đưa đẩy tôi về thời gian sau
Cách Mạng tháng 8. Gia đình tôi dạo ấy ở làng Phú Xuân, bên bờ sông Bình Lục,
cạnh đô thành Huế, với Đập Đá chia cách sông này với Hương Giang, và bên kia là
Thôn Vỹ Dạ... Tôi còn mãi trong trí nhớ (một thiếu niên 15 tuổi) cái hình ảnh
hư ảo của một ban ca nhạc rong, đi chỗ này qua chỗ khác để truyền bá tinh thần
cách mạng và luôn tiện là một cách sinh sống trong thời khói lửa, trong đó có
một ông già chơi đàn accordéon và một đứa trẻ chừng 9 tuối, cùng hát bài ‘’Sơn
La’’ (thật giống như trong ‘’Sans Famille’’ của Hector Malot), theo cung ré
mineur với những âm thanh bình dị : sol sol, la la, ré ré... (tôi không
nhớ rõ đoạn tiếp), nhưng sau này biết là của Đỗ Nhuận (có người nói ‘’ông già’’
ấy chính là nhạc sĩ Đỗ Nhuận). Nhạc rất buồn làm tôi rưng rưng nước mắt, bóc
túi tìm xem có đồng xu nào để trả ơn...
Đêm ấy, trên đường về nhà dưới ánh trăng,
tôi bàng hoàng liên tưởng đến bức tranh linh động mà tôi vừa chứng kiến và văng
vẳng còn trong tâm trí tiếng hát đau khổ như thốt tự đáy lòng của những kẻ bị
tù đày dưới thời Pháp thuộc. Có lẽ ở trong tiềm thức và trong lúc sáng tác TMBS
bốn năm sau, bằng cung ré mineur, những nốt nhạc bình dị và dễ thương đã thúc
đẩy tôi làm rất mau chóng cho xong bài hát mà sau này cũng rất mau chóng sẽ trở
thành một tình ca muôn thuở : NgườI hẹn cùng ta đến bên bờ suối, có nhiều người hát chơi, đổi thành : Người
hẹn cùng ta đến bên bụi chuối để đánh dấu
những cuộc gặp gỡ ở vùng quê, hẻo lánh... Tôi đã không bực mình vì người
ta muốn đổi lời cho vui như thế (mà chỉ mỉm cườI và hãnh diện) vì đó là một
chứng minh rằng Trăng Mờ Bên Suối sẽ sống mãi trong tâm hồn và lý tưởng của
những kẻ thương mến nhau ! Xin cảm ơn các bạn xa gần : tôi vừa tìm ra một trong
những lý lẽ xác đáng về sự thành công vĩnh viễn của một bài hát tôi viết cách
đây hơn nửa thế kỷ.
Xin tạm ngừng và nhân dịp Đại Học Hè Khóa
VI tại OSLO 2002 do Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ (Association
CONVERGENCE) tổ chức với chủ đề TÌNH YÊU, tôi xin mến tặng (một lần nữa) nhạc
phẩm TMBS cho tất cả đồng bào khắp năm châu đã, đang, hoặc sẽ thề nguyện yêu
nhau trọn đời, với nhau và với tình sông nước như Tản Đà tiên sinh đã nhắc nhở
năm 1922 (Thề Non Nước : Thơ Tản Đà, Nhạc Lê Mộng Nguyên) :
Nước non nặng
một lời thề
Nước đi đi mãi
không về cùng non
Nhớ lời
‘’nguyện nước thề non’’
Nước đi chưa
lại, non còn đứng không...
...
Ngàn năm giao
ước kết đôi
Non non nước
nước không nguôi lời thề.
Đại
Học Hè OSLO, ngày 06 tháng 07 năm 2002.
Lê Mộng Nguyên
Nhạc sĩ, Giáo sư
Hàn Lâm Tiến sĩ Quốc Gia Khoa Học Chính Trị (Đại Học Paris)
________________________________________________________________