23/9/16

Bổn Phận Ghi Nhớ



Bổn Phận Ghi Nhớ
 Devoir de mémoire

Từ Xuân Ất Dậu
đến ngày
Quốc Hận 30 Tháng Tư 2005 

                                                                  GS Hàn Lâm TS Lê Mộng Nguyên

     1. Nhân dịp Xuân Ất Dậu...

(GS Lê Mộng Nguyên nói chuyện với đồng bào hải ngoại và quốc nội trên Đài Việt Nam Tự Do - Radio Free Vietnam-Phân Bộ Paris, phát thanh về Việt Nam từ Washington D.C. ngày thứ tư 09 tháng 02-2005 [Mồng Một Tết], từ 7g30 đến 8 giờ tối, giờ Việt Nam)

  Kính thưa đồng bào quí mến,
Trước hết, tôi xin chúc quí đồng bào thính giả một mùa Xuân Ất Dậu tràn đầy sức khỏe và thành công trên mọi lãnh vực. Tôi cũng xin cảm ơn ông Minh Quân, Đặc trách Làn Sóng Người Việt Tự Do ở Pháp (một phân bộ của Radio Free Vietnam, phát thanh từ Washington D.C., do ôngTổng Giám đốc Vương Kỳ Sơn thiết lập ngày 30 Tháng Tư năm 1999) đã cho tôi - với tư cách Trưởng Ban Biên Tập của chi nhánh Paris -  có dịp nói chuyện với đồng bào Việt Nam hải ngoại và quốc nội đúng vào Mồng Một Tết mà ngày xưa dân mình vui mừng đón tiếp, nhưng nay nhắc lại không khỏi bùi ngùi thương tiếc, trong tâm hồn của những kẻ lưu vong đất người, cũng như trong tâm tư của đồng bào quốc nội đang quằn quại dưới một chế độ bạo tàn...

Hồn lắng dư âm một nhịp sầu
Khi buồn dâng ngập cả trời
 ÂuKhi gió đông tàn trong ngõ hẹp
Âm thầm hai đứa rẽ chia nhau

Ai đón xuân qua mấy dạo rồi
Xuân về lạt lẽo, nhớ không nguôi ?
Xa nhà tháng với năm dằng dặc
Kỷ niệm ngày xưa mộng tưởng hoài

Quê hương yêu dấu của ta ơi !
Hàng tre xanh ngắt uốn quanh đồi
Đồng quê man mác mùa hoa nở
Lúa chín thơm nồng trong gió mai

Nay Thiên đường ấy còn đâu nữa ?
Sau chiến tranh tàn phá nước non
Biết bao bom đạn gieo tang tóc
Làng mạc đau buồn khổ chứa chan !

Em có về thăm làng Phú Xuân ?
Sau cơn bão lụt Huế điêu tàn
Rừng xưa im mát không còn nữa
Vì nỗi điên cuồng của thế gian

Em không còn thấy đồng man mác
Chỉ còn lá úa dưới cây đa
Mà anh ngày trước ngồi núp bóng
Trong hạnh phúc giờ phút thoáng qua

Nếu em có trở lại kinh thành
Cầu xưa Kỷ Niệm những ngày xanh
Đã gãy như tình ai tan vỡ
Nay bồi đắp lại quá mong manh

Thương yêu tương tự cầu đứt đoạn
Gián lại đâu còn như ước mơ
Theo hành tinh Đất và nhân loại
Ta đã mất hồn trinh tiết xưa 

(Thơ Lê Mộng Nguyên)

Remember (Souvenez-vous) ! Đó là lời nói cuối cùng của Charles Đệ Nhất (vua Anh-cát-lợi) trước khi ông lên đoạn đầu đài năm 1649. Ngày 27 th. 1-2005, các nước Âu Châu , đã gặp gỡ nhau tại Ba Lan, để làm kỷ niệm 60 năm trại tập trung Auschwitz,  là nơi mà Đức Quốc Xã (chủ nghĩa nazisme) đã thủ tiêu hơn một triệu người Do Thái  bằng hơi ngạt rồi thiêu xác, trong thế chiến thứ hai. Trong dịp này, người ta nhắc đến Bổn phận ghi nhớ (Devoir de mémoire) một bổn phận mà chúng ta phải làm tròn đối với lương tâm nhân loại. Hôm nay  nhân dịp Tết Ất Dậu 2005, tôi nhớ lại  một cách hãi hùng Tết Mậu Thân 1968, mà Phong Trào Giáo Dân VN Hải Ngoại đã tóm tắt ở Trang Bìa sách Thảm Sát Mậu Thân ở Huế, Tuyển Tập-Tài Liệu (do Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ-Định Hướng Tùng Thư Hải Ngoại xuất bản, 1998), như sau :
Lợi dụng giờ phút giao thừa thiêng liêng của dân tộc, Cộng sản VN mở cuộc tổng tấn công đại qui mô trên toàn lãnh thổ miền Nam. Một cuộc giao tranh đẫm máu nhất kể từ mười năm nội chiến, mà chỉ chưa đầy một tháng đã khiến trên 80 000 người Việt thiệt mạng. Cao điểm tàn bạo và đẫm máu là HUẾ, nơi hàng ngàn thường dân vô tội đã bị hành quyết, chôn sống một cách dã man :  2 800 người dân Huế (là nơi tôi sinh quán) bị Việt cộng giết và chôn tập thể : ‘’Những mồ chôn tập thể tại chùa Áo Vàng (đường Võ Tánh), tại Sân Trường Gia Hội, phường Phú Cát hoặc vùng Phú Vang, Phú Thứ v.v...  hàng trăm nạn nhân bị đâm bằng lưỡi lê, bị đánh bằng cán cuốc vào sọ, bị bắn bằng súng hay bị chôn sống, tay bị trói bằng giây điện hay giây tre v.v... Ba bác sĩ Alterkoster, Discher và Krainick, người Tây Đức, giảng dạy tại Đại học Y Khoa Huế cũng bị VC giết trong Tết Mậu Thân vì cho là CIA. Ông Võ Thành Minh (người thổi sáo kêu gọi hòa bình ở Genève, 1954), Tết Mậu Thân 1968, ông đang ở trong từ đường  cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự Huế bị VC bắt và đề nghị ông đứng ra làm Chủ Tịch Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình của VC. Ông từ chối, bị bắt lên núi, và bị chúng giết. Những nơi khác ngoài Huế mà chúng tôi được biết, cũng không kém phần dã man, như ở quận Hoài Nhơn, VC đã tàn sát 200 người một lúc trong đó có cả em bé 12, 13 tuổi, có các cụ già v.v... vì tất cả những người này đã cùng ông Nguyễn Giảng (ĐVCM) chống lại chúng, không chịu đầu hàng. Nhân dân địa phương có lập bia kỷ niệm, nhưng bia đá này đã bị VC phá sau 30-4-1975’’ (TSMTOH, tr. 90-91)...  

       Đi ngược lại thời gian, nước Pháp thuộc địa với đồng lõa phát xít Nhật trong năm Ất Dậu thuộc hành Thủy (từ 13 tháng 2-1945 đến ngày 1 tháng 2-1946), đã cố tâm làm cho 2 triệu đồng bào Việt Nam chết đói hồi ấy một cách tàn nhẫn, thê thảm... Thực dân trắng cũng đã thả bom đạn, 15 năm trước đó, trong mùa Xuân 1930, ngày 16 tháng 2, xuống làng Cổ Am (tỉnh Hải Dương) để khủng bố và giết hại nhiều  dân lành vô tội, sau sự thất bại của Tổng Khởi Nghĩa Yên Báy ngày 10 tháng 2-1930 do vị anh hùng Nguyễn Thái Học phát khởi... và ông đã hiên ngang lên đoạn đầu đài cùng với 12 vị đồng chí liệt sĩ, rạng ngày 17 tháng 6-1930, sau khi đồng tung hô hai chữ Việt Nam ! Việt Nam !  Lúc qua Paris để trình bày sách Đường Thiên Lý (tam ngữ) của Linh Linh Ngọc  tại Thượng Nghị Viện Pháp-Salons de Boffrand ngày thứ bảy 4 tháng 12 năm 2004, nhạc sĩ Trần Quan Long thay mặt Nhà Phát Hành Gió Đông (La Mirada, California-USA) muốn đòi một lời xin lỗi của chính quyền Cộng hòa  về những hành động của thực dân Pháp ở Đông Dương. Chúng ta, đồng bào hải ngoại và quốc nội hiện nay, cũng đòi một lời xin lỗi của nhà cầm quyền Hà Nội  đã gieo tang tóc trên đồng bào miền Bắc từ 1945 đến 1954 và trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ ngày 30 tháng Tư 1975. Phải xin lỗi và tỏ vẻ hối hận trước hương hồn những vị anh hùng Quốc gia đã phải bỏ mình vì Cộng sản, bằng cách giải thoát nước Việt Nam ra khỏi gông cùm độc tài đảng trị và hồi phục dân chủ tự do, cho mọi công dân được ấm no trong hạnh phúc, hòa bình.

         Đêm Giao Thừa năm nay, đánh dấu giờ phút cuối cùng của năm Giáp Thân lúc 24 giờ ngày thứ ba 8 th. 2-2005 và năm Ất Dậu bắt đầu lúc 0 giờ ngày thứ tư, 9 th. 2-2005 (cho đến 24 giờ ngày 28 tháng 1-2006 thì chấm dứt), thuộc hành Thủy và mạng Tuyền Trung Thủy, nghĩa là nước dưới suối, thuộc Âm trong khi năm Giáp Thân vừa qua thuộc Dương : Ất Dậu 2005 là Âm thịnh, Dương suy, thật là tốt... Ca dao truyền khẩu  có nói về 12 con giáp, như :

Tuổi Thân con khỉ ở lùm
Chuyền qua chuyền lại, té ùm xuống sông
Tuổi Dậu con Gà vàng long
Có mỏ mồng, sáng gáy ó o...

      Xin mến chào con Gà ! Đồng bào ở Paris chắc ai cũng nghe nói đến Le Coq Gaulois, là quốc huy của Pháp (điển hình trong những trận đá bóng có tính cách Âu Châu hoặc quốc tế) đi đôi với quốc kỳ tam sắc xanh trắng đỏ. Học giả TS Thái Văn Kiểm, cho biết : ‘’Khi Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành, ông đã ra lệnh lấy lòng trứng gà trộn thành thứ hồ dẻo có sức chịu đựng bền bỉ trước thời tiết khắc nghiệt của vùng biên giới phương Bắc để xây, cho tới nay vẫn còn là một kỳ quan của nhân loại’’ (Đặc san Ái Hữu Ngoại Giao 2005). Ngoài ra còn nhiều giai thoại về gà như : con gà nơi thành Cổ Loa, Hưng Đạo Vương và hịch Tướng Sĩ kêu gọi toàn quân đoàn kết chống ngoại xâm, nên rời bỏ thú chọi gà, cờ bạc, vợ con quấn quít đêm ngày, bởi vì :Giặc Nguyên trở lại đùng đùng

Lấy gì chống đỡ, hay cùng cam tâm ?
Cựa gà sắc không đâm giáp giặc
Mẹo bạc gian khó đoạt mưu quân
Vợ con thêm bận vương chân
Ruộng vườn khôn chuộc cái thân ngàn vàng...

Đó là không kể các giai thoại về Tả quân Lê Văn Duyệt và thú chọi gà, về con gà của Trạng Quỳnh, về chuyện Mất ngôi vì gà, vân vân... 
        Phong Thủy Tử Vi Gia Thiên Phúc (nguyệt san Nghệ Thuật-Montréal, số Xuân Ất Dậu, tháng 2-2005) dày công lượm lặt trong lịch sử nước ta những chi tiết về ngày sinh tháng đẻ của các nhân vật văn hóa chính trị, kinh tế... cho biết rằng : Nguyễn Du (Phải tính là năm  1765 vì ngày sinh của Nguyễn Du là ngày 3/1/1766 nên vẫn còn ở năm Ất Dậu mới đúng, vậy ông tuổi Ất Dậu chứ không phải Bính Tuất theo tuổi ta... Tuổi Đinh Dậu có Trương Vĩnh Ký (1837-1898), nhà bác học ngôn ngữ VN, chủ bút tờ Gia Định Báo, thông thạo 26 thứ tiếng, được xếp vào hàng các Học giả Quốc tế thế kỷ thứ 19... Tuổi Kỷ Dậu có Hoài Thanh (1909-1982), tác giả ‘’Thi Nhân Việt Nam’’, Tuổi Tân Dậu có Lương Định Của (1921-1975), Tiến sĩ Canh nông, tạo được nhiều giống lúa mới, khoai trong thời kỳ kháng chiến Pháp, Tuổi Quý Dậu  có Nguyễn Huệ (1753-1792) tức vua Quang Trung, anh hùng dân tộc, đánh tan quân xâm lược nhà Thanh với chiến thắng Đống Đa năm 1789...Kể từ 1975, người Việt mất nước như chúng ta , trong mảnh đời tha phương cầu thực, đã ăn đến 29 cái Tết ở Âu Châu, Úc Châu, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, vân vân, với nỗi tiếc thương vô cùng luôn hướng về nơi chôn nhau cắt rốn :
Tiếng pháo năm xưa rộn rịp lòng
Giao Thừa ai đón dưới trời Đông
Nhớ mẹ, thương cha : buồn vĩnh biệt
Hương hồn Ba Má thấu cho không ? (Thơ Lê Mộng Nguyên)

Năm Gà làm tôi nhớ Huế, đau khổ đến tận xương tủy, qua hai câu hò thơ mộng :

Gió đưa cành trúc là đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh Gà Thọ Xương

Cũng như trong bài nhạc ‘’Nhớ Huế’’ tôi sáng tác cách đây hơn nửa thế kỷ :

Ai đi xa Huế làm sao quên được sông Hương
Con sông năm trước còn ghi bao tình nhớ thương
Theo dòng nước, lững lờ trôi,
Thuyền ai nghiêng mái chèo
Bên chùa Thiên Mụ, ngược bến Bao Vinh, theo tình nước mây...
     
Cách đây hai năm , đúng ngày thứ sáu 30 Tháng Tư năm 2003, tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại Pháp, sau bản thuyết trình của Lê Mộng Nguyên  về : Cộng Đồng Việt Nam ở Pháp : Từ di trú hội nhập đến tư cách công dân  (La Communauté vietnamienne de France : De l’immigration intégration à la citoyenneté), có người hỏi : Bao giờ ông trở lại Việt Nam ? Để trả lời, tôi xin mượn câu nói của nhà đại thi văn hào Victor Hugo bị đày ải đất khách từ năm 1852 vì chống bạo tàn, nhưng đã quả quyết từ chối đại ân xá năm 1859 của Napoléon Đệ Tam : Trung thành với giao ước mà tôi đã ký kết với lương tâm, tôi sẽ chia xẻ đến tận cùng cái kiếp lưu vong của tự do. Ngày nào tự do được hồi phục, ngày ấy tôi sẽ  trở lại cố hương (Quand la liberté rentrera, je rentrerai). Xin cảm ơn quí vị thính giả.

         2. Ngày Quốc Hận...
30 Tháng Tư 1975 - 30 Tháng Tư 2005
30 năm dân Việt đắm chìm trong khổ đau...

(GS Lê Mộng Nguyên tâm tình với đồng bào quốc nội và hải ngoại trên Đài Việt Nam Tự Do - Radio Free Vietnam-Phân Bộ Paris phát thanh từ Washington D.C. về Việt Nam ngày thứ tư 02/03/2005 từ 7g30 đến 8g tối - giờ VN)        

Kính thưa đồng bào thính giả,
Ngày 30 tháng tư năm 1975, tôi đang có mặt tại Đại học Besançon, cách Paris chừng 400 cây số... Thật ra, tôi ở lại đây từ thứ hai 28 tây để giảng dạy ‘’Luật Thuế Má’’ và ‘’Định chế Tài chánh’’ cùng chấm thi khẩu vấn một số thí sinh một tuần trước tuần cuối cùng niên học 1974-1975. Trong Agenda, tôi có ghi : 14 thí sinh ngày 28, 6 ngày 29 và 30 ngày 30 tháng tư 1975 ! Và dưới ngày 30 : Sài Gòn thất thủ ! Tôi lấy tàu tối hôm ấy trở lại Paris mà lòng buồn vô hạn, đau đớn như nàng Kiều từ nay đoạn trường trong kiếp lưu vong :

Ta mất nước như người mất quá khứ
Tháng Tư Ngàn Chín Trăm Bảy Mươi Lăm
Ngày Ba Mươi như cuộc thế thăng trầm
Muôn đời hận như dân Chàm đã chết

Ta mất nước như người mất thương tiếc
Tháng năm dài lang bạt sống quê người
Luôn hướng về đất nước Việt xa xôi
Đau thương xót thương nhà ai hiểu thấu ?

Ta mất nước như người mất thơ ấu
Trời ban ngày sao tối như ban đêm ?
Xuân đã về sao vẫn lạnh buốt thêm ?
Hoàng hôn xóa bao hình trong ký ức !

Ta mất nước như người mất hạnh phúc
Đêm trăng mài lưỡi kiếm núi sông hờn
Ta nguyện thề quyết trả nợ nước non
Cho quốc nội thoát gông cùm khổ nhục   (Thơ Lê Mộng Nguyên)

...  Tôi còn nhớ sau Hiệp định Genève ký kết tháng 7 năm 1954 để  chấm dứt chiến tranh Pháp-Việt Minh, nước ta bị cắt đôi : miền Bắc trên vĩ tuyến 17 thuộc cộng sản  Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam, trong lúc miền Nam dưới vĩ tuyến 17 thuộc  phái Quốc gia với thành lập Đệ Nhất Cộng Hòa VN tự do (từ 1956 đến 1963) và Đệ Nhị Cộng Hòa tự do (từ 1967 đến 1975, sau một giai đoạn Chính phủ Chấp chính đoàn quân sự). VN bị phân chia :  một triệu đồng bào miền Bắc (trong đó có 700 000 người Công giáo) muốn tránh nạn cộng sản, đã phải rời bỏ tất cả (bà con, gia tài, làng mạc, quê quán) đặng di cư về miền Nam của tự do. Một chính khách hồi ấy (GS Bùi Xuân Bào) mặc dầu không có ý định so sánh dân VN với dân Do Thái-Israẽl chạy trốn bạo tàn Ai Cập, đã viết : Dù muốn dù không, về phần những kẻ bắt buộc phải di cư, chuyện  trong Thánh thư trở đi trở lại trong óc não tôi, bởi vì hình ảnh những chùm người treo qua biển cả trên những chiếc buồm tàu tạm bợ (giống như trong phim Exodus), thật quá rùng rợn... Chiến tranh Quốc gia-Cộng sản, bên phần Quốc gia có Mỹ tài trợ, bắt đầu hai ba năm sau Hiệp định Genève, và chính thức chấm dứt lúc Thỏa hiệp Paris được ký ngày 27 th. 1-1973 với một điều khoản rất quan trọng như sau : Sự thống nhất nước Việt Nam sẽ thực hiện qua nhiều giai đoạn, bằng những phương sách hòa bình, dựa trên nền tảng thảo luận và thỏa hiệp giữa Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, không được cưỡng bách, hoặc thôn tính của phần này đối với phần khác và cũng không có sự can thiệp của ngoại bang...  Hai năm và 3 tháng sau Hiệp định Paris,  chiến xa Quân đội Cộng sản xâm lược Sài Gòn, kinh đô của Cộng Hòa Việt Nam tự do, và đổi ngay tên Sài Gòn sang Thành Phố Hồ Chí Minh. Bài hát ‘’Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên’’ của Nguyễn Đình Toàn hồi ấy có câu : Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên...
              30 Tháng Tư 1975 là ngày quốc hận muôn đời ghi nhớ : Từ dạo ấy, Cộng sản vi phạm trắng trợn những lời ký kết trong Thỏa hiệp Paris bằng cách thống nhất toàn lãnh thổ VN ngay năm1976, chính thức lấy  tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN (République socialiste du Vietnam), đặt nền tảng độc tài đảng trị, xóa bỏ tất cả những tự do dân chủ mà đồng bào ta hưởng thụ dưới chế độ miền Nam, bắt giam cầm những kẻ ngày xưa tranh đấu chống Cộng trong những trại tập trung cải tạo, nơi mà cuộc sống kham khổ đã làm cho bao nhiêu dân quê, thợ thuyền, trí thức và đồng bào tôn giáo phải bỏ mạng. Nước VN giàu có, thịnh vượng ngày xưa nay trở thành một Nhà Tù vĩ đại mà Đao phủ thủ là người của Đảng. Theo HP 1992,  Điều 4 : Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân VN, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
       Như thế nghĩa là những quyết định của Ủy ban Trung ương, hoặc Bí thư của Đảng có hiệu lực hơn đạo luật do Quốc hội chấp nhận hoặc sắc lệnh của Chủ tịch Nhà nước hay Thủ tướng Chính phủ. Đồng bào quốc nội hiện đang sống sót dưới một chế độ không có Nhà nước pháp quyền, một chế độ độc tài đảng trị... Để ra khỏi tình trạng kinh tế bế tắc, Đại hội thứ 6 của Đảng trong Tháng 12-1986 đưa ra kế hoạch Đổi Mới (Renouveau)  đi song song với cởi mở kinh tế tư bản thị trường mà HP 1992 chính thức đề cao...  Kết quả có tiến bộ một phần nào trên mặt kinh doanh, vì Hà Nội đã bỏ thái độ cô lập trên mặtquốc tế, và cũng nhờ vốn đầu tư dồn dập tới VN từ các đại cường quốc Âu Tây và láng giềng trong vùng Thái Bình Dương. Nhưng mặt trái của huy chương là : tự do thương mại và kỹ thuật mà không đi đôi với tự do chính trị, chỉ đưa nước ta đến một tình trạng không lối thoát. Một thiểu số công dân được Đảng và Chính phủ bao bọc trở thành giàu có trong lúc đa số đồng bào ở vùng thôn quê và ngoại ô thị thành làm nghề cày ruộng hoặc thất nghiệp, đã nghèo lại càng nghèo hơn. Nạn tham nhũng như một ung thư lan tràn cả bộ máy chính trị, hành chánh quốc gia, đi đôi với hậu quả tự do kinh doanh là ô nhiễm môi trường làm cho nước ta đắm chìm trong một khủng hoảng xã hội rất trầm trọng.
       Cảnh nước mất nhà tan từ 1945 của đồng bào Bắc Việt và từ 1975 của đồng bào toàn lãnh thổ, bởi Cộng sản VN thiển cận, trong lúc các nước Trung và Đông Âu và ngay cả Liên Xô Nga, đã từ bỏ Cộng sản sau cuộc Cách mạng phá đổ Tường Bá Linh 1989-1991, thật là đau lòng ! Michel TAURIAC  sau bản thuyết trình của ông về Những kẻ trầm luân của tự do (Les naufragés de la liberté) tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại Pháp, chiều ngày  3 th. 3 năm 2000, và trong cuộc đàm luận tiếp theo, đã thở than :  Tôi muốn nói, để kết luận cuộc đàm luận này, rằng thật đáng thương xót khi thấy một nước như nước Việt Nam với bao nhiều tài năng và tài nguyên, đã có thể bỏ phí một may mắn lớn lao, để xây dựng lại nước nhà... Sự hoang phí hạng trí thức lỗi lạc mà nhà cầm quyền đã tống giam thay vì để họ tham dự ích lợi chung, và nhừng kẻ khác phải trở thành thuyền nhân (boat people) trên biển cả... Tất cả việc này là một phung phí vĩ đại... Các bạn còn nhớ không : Séoul, sau chiến tranh giữa Bắc và Nam, là một đống hoang tàn đổ nát, thế mà bây giờ, Nam Triều Tiên là một đại cường quốc kinh tế và dân chủ tự do... Các bạn thử tưởng tượng nước Việt Nam (không Cộng sản) ngày nay sẽ như thế nào !...  Chúng ta chỉ biết đớn đau  khi nghĩ tới nước bạn này...   
       Riêng chúng ta : đồng bào hải ngoại hướng về quốc nội, phần đông thuộc hạng trí thức ái quốc sống kiếp lưu vong, chúng ta nguyện thề đấu tranh, đặng giữ toàn vẹn cái tinh thần nước Việt (la vietnamité) nghĩa là : Một phương pháp tư tưởng, một cách viết, nói và hành động theo truyền thống tổ tiên,  đã làm cho nước ta hùng tráng với quyết chí vững bền bất khuất phục trước một quyền lực độc tài trải qua những khúc quanh co của một lịch sử đầy thống khổ. Cái tinh thần nước Việt  này  là di sản của ông cha trong sự bất dịch của toàn dân, mặc dầu một ngàn năm đô hộTàu (từ 111 trước Tây Lịch đến năm 931 sau Tây Lịch), gián đoạn bởi phản kháng và tổng khởi nghĩa do Hai Bà Trưng, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, và  Đại tướng Ngô Quyền đã đuổi quân xâm lược Trung Hoa ra khỏi biên thùy sau trận chiến thắng sông Bạch Đằng năm 931. Paul Mus, tác giả ‘’Vietnam, sociologie d’une guerre’’ (Việt Nam, xã hội học của một chiến tranh, 1952), đã viết : Mỗi khi nói đến Việt Nam, cái câu để giải nghĩa những vấn đề lịch sử, nằm đúng trong cái tinh thần kháng cự, liên kết một cách nghịch thường với những năng lực lạ lùng đồng hóa,  một ý chí quốc dân không sờn trong thử thách của thất bại, những cắt xẻ đất đai và những chinh phục lẫy lừng. Hơn một thiên niên kỷ, nước VN bị sáp nhập nước Tàu vô điều kiện, không những đã không suy nhược, trái lại đã làm cho nước Việt thêm vững bền. 
       Chính cái tinh thần kháng cự này, đã và tiếp tục bảo tồn ngọn lửa ái quốc, trong cuộc chiến đấu không ngừng và không bao giờ mỏi mệt của đồng bào quốc nội cùng hải ngoại cương quyết lật đổ một quyền lực khinh miệt nhân quyền và dân quyền, một chính phủ đã bội phản dân tộc Việt Nam qua hai Điều ước ký ngày 30 tháng 12 năm 1999 và 25 tháng 12 năm 2000,  hiến dâng cho Trung Cộng  một phần lớn lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam.  Xin cảm ơn quí vị.

Lê Mộng Nguyên (Paris)